Nhờ đứng tên dùm GCNQSDĐ từ năm 1993 có kiện lấy lại được không?

Chưa có bản dịch tiếng Anh của bài viết này, nhấn vào đây để quay về trang chủ tiếng Anh There is no English translation of this article. Click HERE to turn back English Homepage
Ngày hỏi: 12/09/2016
Nhờ Mấy Anh(Chị) tư vấn dùm trường hợp của Em như sau: Ông Anh thứ 8 có mua 1 mãnh đất có luôn nhà vào năm 1992 bằng giấy viết tay nhưng không có công chứng hay xác nhận của bất cứ cơ quan nào (Nội dung giấy viết tay có tên đầy đủ của Ông Anh 8 mua bán với chủ đất củ có ký tên giữa các bên, và xác nhận trả tiền làm nhiều đợt có ký tên). Ông Anh 8 chỉ đứng tên giấy phép xây dựng nhà, đồng hồ điện… nên nhờ Ông 10 đứng tên Giấy CNQSDĐ được cấp năm 1993. Từ năm 1993 đến 2014 Ông Anh 8, Ông Anh 9 và Tôi là 3 anh em ruột trực tiếp sinh sống và quản lí mãnh đất trên đến nay. Năm 2014 Ông Anh 8 chết. Ông anh 10 đòi lấy hết mãnh đất này vì Ông 10 đứng tên GCNQSDĐ. Hiện có 1 phần đất đang cho thuê do Ông Anh 8 ký hợp đồng từ năm 2009 đến nay. CÂU HỎI : Tôi và 2 anh chị em khác có quyền ngăn cảng không cho Ông B lấy tiền thuê nhà không? Cũng như quyền yêu cầu không cho thuê nhà nữa mà không cần phải có sự đồng ý của Ông 10 hiện đang đứng tên Giấy CNQSDĐ hay không? Các bước nên làm đúng luật như thế nào? Tôi có thể kiện lấy lại giấy CNQSDĐ cho Anh 8 của tôi hay không? Trường hợp Ông 10 bán mà không có sự đồng ý của 3 anh chị em tôi đang trực tiếp sinh sống thì có bán được không? Vì hiện 3 anh chị em tôi chưa có nhà và đất riêng. 3 anh chị em tôi có được quyền ưu tiên mua lại mãnh đất này hay không?
    • 1. Trong vụ việc của bạn phải làm rõ bản chất pháp lý của hai giao dịch là giao dịch năm 1992 giữa anh thứ 8 của bạn với người chuyển nhượng thửa đất đó; Và giao dịch giữa anh thứ 8 với anh thứ 10 (nhờ đứng tên).

      - Theo thông tin bạn nêu thì anh thứ 8 của bạn nhận chuyển nhượng từ năm 1992 bằng giấy viết tay, nhưng đã sử dụng ổn định, liên tục không có tranh chấp vì vậy có thể được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2, hoặc khoản 4, Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

      - Nếu anh thứ 8 có văn bản tặng cho, chuyển nhượng cho anh thứ 10 và anh thứ 10 đã được cấp GCN QSD đất, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện theo đúng quy định pháp luật thì thửa đất đó là tài sản của anh thứ 10, anh em bạn không thể khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế của anh thứ 8 được nữa (vì di sản không còn).

      2. Nếu có chứng cứ thể hiện là việc anh thứ 10 đứng tên chỉ là (đứng tên giùm), anh thứ 8 chưa định đoạt thửa đất đó hoặc việc định đoạt không hợp pháp, giao dịch giữa anh thứ 8 với anh thứ 10 bị hủy bỏ thì anh em bạn có quyền khởi kiện để chia khối bất động sản đó cho các anh em trong nhà theo quy định pháp luật về thừa kế.

      Bạn cần xem lại hồ sơ xin cấp GCN QSD đất của anh thứ 10 để biết về tính pháp lý của giao dịch đó.

      3. Việc thuê nhà, cho thuê nhà thực hiện theo hợp đồng thuê nhà đã được hai bên ký kết. Theo quy định pháp luật thì hợp đồng thuê nhà do người chủ sở hữu ngôi nhà đó quyết định. Nếu có tranh chấp về hợp đồng thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Với thời điểm hiện tại, anh thứ 10 đang có tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì vậy anh thứ 10 sẽ có toàn quyền quyết định đối với thửa đất đó cho đến khi giấy chứng nhận đó bị điều chính hoặc hủy bỏ (nếu có).

    Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: nhch@lawnet.vn

    Căn cứ pháp lý của tình huống
    THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI
    Hãy để GOOGLE hỗ trợ bạn