Người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp nào?

Chưa có bản dịch tiếng Anh của bài viết này, nhấn vào đây để quay về trang chủ tiếng Anh There is no English translation of this article. Click HERE to turn back English Homepage
Ngày hỏi: 05/09/2016

Công ty em soạn thảo hợp đồng lao động ký có thời hạn 01 năm với em. Trong nghĩa vụ của người lao động, công ty có điều khoản: Nếu muốn chấm dứt Hợp đồng lao động thì phải báo trước 30 ngày, đồng thời bồi thường 01 tháng lương cơ bản cho người sử dụng lao động. Như vậy, cho em hỏi điều kiện bồi thường 01 tháng lương cơ bản này có đúng với quy định của luật lao động không ạ?

    • Liên quan đến vấn đề chấm dứt hợp đồng lao động, Điều 36 Bộ luật Lao động năm 1994' onclick="vbclick('972E', '134485');" target='_blank'>Bộ luật Lao động năm 1994quy định hợp đồng lao động sẽ chấm dứt trong những trường hợp sau đây:

      “1- Hết hạn hợp đồng;

      2- Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng;

      3- Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng;

      4- Người lao động bị kết án tù giam hoặc bị cấm làm công việc cũ theo quyết định của Toà án;

      5- Người lao động chết; mất tích theo tuyên bố của Toà án”.

      Ngoài các trường hợp nói trên, hợp đồng lao động có thể chấm dứt trong trường hợp người lao động và người sử dụng lao động đưa ra yêu cầu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn, nếu đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định tại Điều 37, 38, 41, 42, 112 Bộ luật Lao động năm 1994' onclick="vbclick('972E', '134485');" target='_blank'>Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002).

      Theo đó, về phía người lao động, nếu muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn cần tuân thủ hai điều kiện sau:

      1. Điều kiện về lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:

      Người lao động phải có lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 37 Bộ luật Lao động năm 1994' onclick="vbclick('972E', '134485');" target='_blank'>Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), cụ thể như sau:

      “a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thoả thuận trong hợp đồng;

      b) Không được trả công đầy đủ hoặc trả công không đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng;

      c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động;

      d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng;

      đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

      e) Người lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc;

      g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị ba tháng liền đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục”.

      2. Điều kiện về thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

      Người lao động phải tuân thủ thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động theo quy định Khoản 2 Điều 37 của Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002). Thời hạn báo trước của người lao động phụ thuộc vào lý do mà người lao động đưa ra để chấm dứt hợp đồng, cụ thể là:

      - Người lao động phải báo trước ít nhất là ba ngày nếu người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo lý do quy định tại điểm a, b, c, g khoản 1 Điều 37 Bộ luật Lao động năm 1994' onclick="vbclick('972E', '134485');" target='_blank'>Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002);

      - Người lao động phải báo trước ít nhất 30 ngày nếu chấm dứt hợp đồng vì một trong hai lý do quy định tại điểm d khoản 1 Điều 37.

      - Đối với trường hợp người lao động là phụ nữ có thai phải nghỉ việc do chỉ định của thầy thuốc thì thời hạn báo trước theo quy định của Điều 112 Bộ luật Lao động 1994 là không xác định mà tùy thuộc vào thời hạn do thầy thuốc chỉ định.

      Như vậy, nếu người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn mà tuân thủ 02 điều kiện nói trên thì không phải bồi thường cho người sử dụng lao động. Ngược lại, nếu người lao động không tuân thủ hai điều kiện đó, tức là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trái pháp luật, thì phải bồi thường cho người lao động nửa tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).

      Do đó, nếu bạn được ký hợp đồng lao động có thời hạn 12 tháng với công ty mà trong hợp đồng lao động có điều khoản “Nếu muốn chấm dứt Hợp đồng lao động thì phải báo trước 30 ngày, đồng thời bồi thường 01 tháng lương cơ bản cho người sử dụng lao động” thì theo các quy định nói trên của Bộ luật Lao động năm 1994' onclick="vbclick('972E', '134485');" target='_blank'>Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) thì điều khoản này là trái pháp luật.

      Do điều khoản này là trái pháp luật nên nếu bạn muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, bạn chỉ cần tuân thủ đầy đủ 02 điều kiện theo các quy định của Bộ luật Lao động thì bạn không phải bồi thường bất kỳ khoản tiền nào cho công ty của bạn.

    Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: nhch@lawnet.vn

    Căn cứ pháp lý của tình huống
    THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI
    Hãy để GOOGLE hỗ trợ bạn