Chứng cứ trong vụ án hình sự có giá trị khi nào? Việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được quy định như thế nào?

Bấm vào đây để xem bản dịch tiếng Anh của bài viết này Click HERE to see the English translation of this article
Ngày hỏi: 10/08/2022

Chứng cứ trong vụ án hình sự có giá trị khi nào? Việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được quy định như thế nào?

Dạ chào anh chị, em đang tìm hiểu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về chứng cứ, em muốn hỏi chứng cứ muốn có giá trị thì phải đáp ứng các điều kiện nào ạ? Nhờ anh/chị tư vấn.

    • Chứng cứ trong vụ án hình sự có giá trị khi nào? Việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được quy định như thế nào?
      (ảnh minh họa)
    • 1. Chứng cứ trong vụ án hình sự có giá trị khi nào?

      Căn cứ Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự 2015' onclick="vbclick('487B4', '370975');" target='_blank'>Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định về chứng cứ như sau:

      Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

      Như vậy, theo quy định như trên, để được coi là có giá trị, chứng cứ trong vụ án hình sự phải đáp ứng hai điều kiện là những gì có thật, và được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

      2. Việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được quy định như thế nào?

      Theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015' onclick="vbclick('487B4', '370975');" target='_blank'>Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được quy định như sau:

      1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.

      2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

      3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.

      4. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.

      5. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.

      Theo đó, việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự phải được thực hiện theo quy định như trên.

      Trân trọng!

    Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: nhch@lawnet.vn

    Căn cứ pháp lý của tình huống
    THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI
    Hãy để GOOGLE hỗ trợ bạn