Cướp tài sản của phụ nữ có thai bị xử phạt như thế nào?

Bấm vào đây để xem bản dịch tiếng Anh của bài viết này Click HERE to see the English translation of this article
Ngày hỏi: 07/01/2022

Vợ tôi có thai tháng thứ 8 trong lúc đi khám thai thì bị một người cướp túi xách. Tôi muốn biết người cướp túi của vợ tôi có thể bị phạt bao nhiêu năm tù?

    • 1. Cướp tài sản của phụ nữ có thai bị xử phạt như thế nào?

      Căn cứ Điều 162 Bộ luật hình sự 2015 có quy định về tội cướp tài sản như sau:

      1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

      2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

      a) Có tổ chức;

      b) Có tính chất chuyên nghiệp;

      c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

      d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

      đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

      e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

      g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

      h) Tái phạm nguy hiểm.

      …..

      Như vậy, theo quy định như trên và những tình tiết mà bạn cung cấp người có hành vi cướp túi xách của vợ bạn có thể sẽ phải đối mặt với mức án tù từ 07 năm đến 15 năm do phạm tội cướp tài sản với phụ nữ mà biết là có thai.

      2. Cướp tài sản của phụ nữ mà biết là có thai có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự?

      Căn cứ Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau:

      1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

      ….

      i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;

      k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

      l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

      m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;

      n) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;

      o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;

      p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

      2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

      Theo đó, mặc dù phạm tội với phụ nữ có thai là tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên trong Khoản 2 Điều 162 Bộ luật hình sự 2015 đã có dấu hiệu định khung là “phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai”. Do đó đây không còn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

      Trân trọng!

    Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: nhch@lawnet.vn

    Căn cứ pháp lý của tình huống
    THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI
    Hãy để GOOGLE hỗ trợ bạn