Tội không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án

Chưa có bản dịch tiếng Anh của bài viết này, nhấn vào đây để quay về trang chủ tiếng Anh There is no English translation of this article. Click HERE to turn back English Homepage
Theo dõi sự thay đổi của Tội không chấp hành án
Ngày hỏi: 05/06/2018

Tội không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án theo Bộ Luật hình sự 1985 được hiểu như thế nào? Xin chào Ban biên tập. Tôi hiện đang sinh sống và công tác tại Đà Nẵng. Để phục vụ cho công việc, tôi có thắc mắc mong Ban biên tập có thể giải đáp giúp tôi. Ban biên tập cho tôi hỏi: Trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực thì tội không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án được quy định như thế nào? Tôi có thể tham khảo vấn đề này ở đâu? Tôi mong sớm nhận được giải đáp từ Ban biên tập. Xin chân thành cảm ơn!

Đức Thịnh (thinh***@gmail.com)

    • Trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực thì tội không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 240 Bộ luật hình sự 1985 như sau:

      - Người nào cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

      - Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hành thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

      Trên đây là nội dung quy định về tội không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, bạn nên tham khảo thêm tại Bộ luật hình sự 1985.

      Trân trọng!

    Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: nhch@lawnet.vn

    Căn cứ pháp lý của tình huống
    THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI
    Hãy để GOOGLE hỗ trợ bạn