Xin hỏi luật sư đây có phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không? Cách giải quyết tối ưu

Chưa có bản dịch tiếng Anh của bài viết này, nhấn vào đây để quay về trang chủ tiếng Anh There is no English translation of this article. Click HERE to turn back English Homepage
Ngày hỏi: 30/08/2016

Xin các luật sư giúp tôi tìm biện pháp giải quyết tốt nhất. Vừa rồi hai vợ chồng tôi có vay mượn và mua một căn nhà trị giá 1ty 500 triệu để ở. Khi đến hỏi mua do vợ chồng cũng thích căn nhà nên quyết định mua. nhưng khi đặt cọc yêu cầu trình bản gốc thì họ nói thế chấp tại ngân hàng và yêu cầu vợ chồng tôi trả tiền vay ngân hàng 200 triệu cộng lai 10 triệu và có thoả thuận viết tay có hàng xóm làm chứng. Khi lấy sổ về yêu cầu họ đi công chứng hợp đồng mua bán thị họ lần khất không chịu đi và đòi phải trả thêm 200 triệu đồng tiếp thì mới chịu đi công chứng. Do đó vợ chồng tôi lại trả 200 triệu và làm hợp đồng mua bán viết tay tại nhà và có mời tổ trưởng tổ dân phố làm chứng cho việc giao tiền. Họ hẹn mấy hôm sau đi công trứng và vợ chồng tôi thanh toán nốt. Nhưng đến nay đã quá hạn rất nhiều lần gọi điện thì không nghe máy...đến nhà thị người chồng chửi bới cục cằn, mang tính chất thách thức...Vậy xin các luật sư cho ý kiến xem tôi phải làm gì trong trường hợp này, có nên nhờ pháp luật giải quyết không vì tôi biết họ không có khả năng chi trả lại tiền cho tôi, mà họ cũng không đi công chứng để việc mua bán hoàn tất..đến nay đã qua thời gian giao nhà theo giấy mua bán viết tay. Vậy có phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không hay là làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản... Xin các anh chị giúp tôi sớm giải quyết!

    • Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

      Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

      1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

      2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

      a) Có tổ chức;

      b) Có tính chất chuyên nghiệp;

      c) Tái phạm nguy hiểm;

      d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

      đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

      e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

      g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

      3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

      4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

      5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

      Căn cứ quy định trên, trường hợp này chưa đủ yếu tố để cấu thành tội phạm theo quy định, bản chất sự việc là quan hệ dân sự vì vậy phải giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

      Do bạn đã chủ động gặp gỡ với vợ chồng họ để giải quyết nhưng không giải quyết được vì vậy bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền - tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc để bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng bạn.

    Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: nhch@lawnet.vn

    Căn cứ pháp lý của tình huống
    THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI
    Hãy để GOOGLE hỗ trợ bạn